MẠCH HỌC diễn-ca
30-06-2021
MẠCH HỌC diễn-ca
Làm thuốc không biết mạch. cũng như đi đêm không có đèn Cổ nhân đã nói như vậy.
Nhưng, xem mạch là việc rất khó mà nhớ phương pháp xem mạch lại càng khó hơn nữa.
Bởi vậy các nhà danh y nước ta ngày xưa cũng đã diễn ý mạch kinh thành ca quốc-âm, đó là những cách làm cho việc khó hóa ra việc dễ vậy.
Xét trong bài ca dạy xem mạch này lời văn trôi chảy lại rất đúng với nghĩa sách mạch, nhất là để học cho thuộc lòng, nên tôi sao lục nguyên- văn ra đây để tiện quý bạn tham khảo và nếu có chỗ nào sót vui lòng hiệu chỉnh đề cùng dụng cho đoàn hậu tấn hảo học.
LỜI MỞ ĐẦU
Thung dung ngẫm nghĩ y-thư,
Linh-đơn thần dược dựng từ vua Nông.
Giúp muôn bịnh, nếm cùng trăm cỏ,
Đem dân lên cõi Thọ nền Xuân.
Mạch xem đề phép hậu nhân,
Phù, Trầm, Trì, Sác, thốn phân rõ ràng.
Hoặc ngoại-cảm nội-thương phải biết.
Dù thực hư khí huyết cho tường,
Liệu mà cao, tán, hoàn, thang,
Một pho bản-thảo để gương muôn đời,
Thầy Thúc-Hòa là người Đông-Tấn,
Nghề Hiên-Kỳ chín chắn, tinh tường.
Soạn ra mạch-quyết, tiên phương,
Như giòng nước chảy,như tràng áo xông.
Vâng Tiên-triết, mở lòng hậu học
Lời Quốc âm ôn đọc cho hay.
Mạch xem từ thuở sáng ngày,
Âm kia chưa động,Dương này chưa tan.
Lòng còn không chưa hề ẩm thực,
Khí huyết đương đúng mực hòa- bình.
Khoan thai ngồi phải ngay mình,
Nhận xem mạch ý cho rành chớ sai.
Hoặc có lúc gặp người bịnh gấp,
Liệu xem qua lọ trấp lệ thường.
Trai thì bên tả là Dương,
Gái thì bên hữu phải tường là Âm
1.-THẤT CHẨN
Phép có bảy chớ lầm thất chẩn,
Xem mạch thì cẩn thận cho hay.
Một là yên tĩnh lòng này,
Giữ gìn khí tức chớ sai tơ hào.
Hai là chớ tưởng điều lo nghĩ,
Bỏ việc ngoài thì ý mới tinh.
Ba là yên định hơi mình,
Một hô một hấp quân bình mới hay.
Bốn là nhẹ ngón tay dò xét,
Mạch Phủ nầy cho biết là phù (1).
Thứ năm sẽ ấn mà dò.
Nhớ rằng Vỵ khí qui hồ thích
trung (2).
Sáu ấn nặng ở trong cốt tiết,
Mạch tạng nầy cho biết là trầm (3).
Bảy xem trì sác chớ lầm,
Một hơi mấy Chí suy tầm thực, hư.
2.-CỬU HẬU
Bẩy phép đó gọi rằng thất chẩn,
Cửu hậu này nên nhận bản tiêu.
Tay tuy tả hữu hai chiều,
Mạch: Quan, Xích, Thốn cũng đều có ba,
Quan ở trong, ấy là định-chuẩn,
Ngang xương cao cùng tận sau bàn.
Xem thì cứ đấy làm Quan, (4)
Trong ngoài Xích (5) Thốn (6) nhớ đàn mà suy.
Quan trở ra đó thì Thốn mạch,
Quan trở vào là Xích chẳng sai.
Hai bên ba bộ cả hai,
Phủ nào tạng ấy theo loài một cung.
Bên tay trái Thốn cùng Quan Xích,
Thốn bộ : Tâm mạch với Tiểu Trường.
Quan bộ : Can Đởm rõ ràng,
Xích bộ:là thận-Bàng quang một dòng.
Bên tay phải, Thốn cùng Quan Xích,
Thốn bộ : thì Phế với Đại-trường.
Quan bộ : Tỳ Vị rỏ ràng,
Xích bộ: Mệnh hỏa với đường Tam Tiêu,
Cả ba bộ đều theo chủng loại,
Trong có ba ngoài lại có ba.
Nhân trong Cửu hậu suy ra,
Ba ba tính lại chẳng là chín chăng?
3.-TAM HẬU
Phù trung trầm ấy ra ba hậu,
Theo Thốn, Quan, Xích, khẩu mà
lường.
Tả thốn nhẹ xét tiểu-trường, Trung là Vỵ-khí nặng đường Tâm- kinh.
Tả Quan bộ nhẹ dành đởm-khí,
Trung Vy-khí nặng chỉ can-phường.
Tả Xích, nhẹ xét Bàng-quang,
Trung xem Vỵ-khí nặng đường thận kinh.
Tay hửu cũng phân minh tách bạch,
Hửu thốn nhẹ xem mạch Đại-trường.
Trung là Vị khí phải tường,
Nặng thì mạch phế, phép càng mầu thay.
Hữu quan nhẹ mạch này Vỵ phủ,
Trung Vỵ khí nặng đó Tỳ kinh.
Hữu Xích nhẹ Tam tiêu kinh,
Trung xem Vỵ khí nặng rành Mệnh môn.
Phải xét kỹ mấy con tạng phủ,
Nhận các kinh cho tỏ kinh nào ?
Đoạn rồi tóm hết trước sau,
Nghiệm điều hư thực suy câu dữ lành.
Trước coi hình, sau xem tiếng nói,
Lại hỏi xem bệnh phải khi nào ?
Bấy lâu uống những thuốc nao ?
Cùng suy với mạch nghiệm vào một hai.
Người cao đầy khi coi thừa ngón,
Kẻ nhỏ lùn thu gọn ngón tay.
Âm Dương bộ phận sao đây ?
Xích kia âm đó thốn này là dương.
Trai mạch thuận thốn cường xích nhược
Gái trái đi mới được bình yên
Trai thì tả mạnh là nên
Gái thì hữu mạnh cũng bên mạch thường
Trai mạch gái là dương khí yếu Gái mạch trai âm thiếu mà ra Mạch bình theo đó suy qua Nếu mà trái khóe ấy là ốm đau Đoán mạch phải xét theo từng bộ
Khí huyết cùng tạng phủ làm sao ?
Thốn bộ thị ở thượng tiêu
Từ đầu đến ngực bịnh đều phần trên
Quan : trung tiêu cùng miền Hung ức.
Xích : lưng đùi với chỗ Hạ tiêu Ba bộ bịnh ở bộ nào ?
Thuộc phủ thuộc tạng bản tiêu cho tường
Năm tạng, thương tạng nào bịnh ấy
Sáu phủ kia cũng vậy khác chi ? Tâm, can, phế, thận và Tỳ
Đó là năm tạng tên ghi rõ ràng Đại Tiểu trường cùng là Đởm Vị Từ bàng quang cho chí tam tiêu
Cái tên sáu phủ đã nêu
Tạng là bản, phủ là tiêu đó mà Một tức là một 《hô》một 《 hấp》
Mạch bốn lần răm rắp chẳng sai
Hoặc thêm năm chí một hơi Cùng là bình mạch trong người không sao
Phù, trung, trầm, bộ nào cũng thế
Có Vỵ khí là mạch có thần
Nếu mà trì sác bất quân
Ấn tay không lực không thần là nguy
Mùa Xuân thì mạch Huyền là phải
Hạ mạch Hồng, thu tới mạch mao(1)
Mùa đông mạch thạch (2) càng yên
Bốn mùa bình mạch ấy đều khoan an
4.- THẤT BIỂU
Mạch thất biểu lại bàn cho trải PHÙ : như tay đã phải giọc hành
HẬU : trung không, lưỡng biên đình
HOẠT: luôn ba bộ như hình hột
châu
THỰC : trường đều khinh phù có lực
HUYỀN : kỉnh trực vững thẳng giây cung
KHẨN : găng như thể bện thừng
HỒNG : thì chẳng đợi ấn hằng có dư
5. BÁT LÝ
Bảy mạch xưa ấy là thất biểu Bát lý này lại bảo cho tường TRẦM : như buông nhẹ tận xương
Vi thời nhữ thể tạo vương khác gì ?
HOẢN giống trì lại qua thảnh thót
SẮC kết như giao gọt tinh tre Trầm mà tam chí là TRÌ
PHỤC thời thiết cốt li ti khó tìm
NHU thời mềm chẳng ưa ấn nặng
NHƯỢC xem ra lai vãng dường không
6.– CỬU ĐẠO
Thuộc âm bát lý đã xong
Lại xem cửu đạo cho cùng mới nên
TRƯỜNG nhược can (3) chạy liền ba vị
ĐOẢN bản chỉ bất cập bị lai (4) Mạch HƯ tuy có lốn giài
Phù trầm vô lực cả hai lạ gì ? SÚC (5) mạch thì ở nơi thốn khẩu
Súc chẳng khoan dễ giấu được ai ?
KẾT (6) thì chợt khứ chợt lai
Như trì như hoãn tụ rồi lại tan Động hựu chỉ bất hoàn là ĐỢI (7) LAO tựa trầm khi lại khi không
Lần lần lại ẩn vào trong
Nhỏ mà không lực có không bất thường
ĐỘNG thời dường mơn mơn đá động
Chẳng lại đi chỉ đóng một nơi TẾ thời nho nhỏ chẳng sai Mãnh manh vô lực kém loài mạch Vy
7. XÚC-CÁCH-ĐẠI
Mạch trước kia ấy là cửu đạo Còn ba mạch lại bảo cho tường XÚC thời thuộc biểu thuần dương
Một tức sáu chí rõ ràng chẳng sai
CÁCH mạch thời trọng khinh đều thực
Nằng nặng dường ấn mặt trống rung
ĐỢI kia cũng giống mạch Hồng Nhẹ thời chằng lớn, nặng không tựa Trầm
Phải dụng tâm cho tường mạch tính. Khi xem thì đính chính mới hay
Ấy là mọi mạch đã bày
Còn xem thuộc bình sau này cho thông.
8.- THẤT BIỂU THUỘC BỊNH
Thốn mạch PHÙ trên đầu gió thoảng,
Quan mạch PHÙ: phúc trướng Vị không,
Xích PHÙ thời Phế thụ phong, Đại trường khô sáp khó thông phong tà.
Thốn HẬU là hung trung tích huyết,
Quan HẬU thì trệ kết trường Ung,
Xích HẬU di nịch huyết nung,
Thận kinh hư bại không thông tiểu-trường.
Thốn bộ HOẠT là thường thổ nghịch,
Quan HOẠT thời Vị tích hư hàn, Uống ăn coi bộ gian nan,
Xích mà mạch HOẠT tê hàn như
băng.
Dương-hỏa hưng thì Âm-thủy kiệt,
Nước uống nhiều không biết chán chê.
Thốn THỰC là hung trung phiền nhiệt,
Quan THỰC thì đau nhức trung- tiêu,
Xích THỰC nhiệt truyền lưu tiểu- phúc,
Bụng dưới đau từng lúc lại đầy, Tiểu tiện bí sáp ghê thay.
Ấy là thực-nhiệt tích đầy hạ-tiêu,
HUYỀN mạch chủ phong lao thống tiết, (14)
HUYỀN ở Can là nhiệt sanh phong,
Thốn HUYỀN cấp thống chủ hung,
HỮU quan thấy nó vị trung khách hàn.
Xích bộ HUYỀN đan-điền đình thủy,
Bởi Vị hư khôn chế thận-kinh. Thốn KHẨN đầu thống đành rành
Quan KHẨN thiết thống lưu đình hung trung.
Xích KHẨN chủ nhiểu đông tề-hạ,
Nhiệt kết hung thốn bộ thấy HỒNG.
Quan HỒNG phiên vị ẩu không, Xích HỒNG tiện sáp cước đông vô thì.
9, BÁT LÝ THUỘC BỊNH
Thốn Vi khí bốc lên thành bĩ, Quan Vi là uất khí kết tâm,
Xích Vi chủ bịnh về âm,
Thận hàn thủy động thân ngâm bất thường,
Âm thịnh nhiều thì dương suy bại,
Nam di tinh, Nữ đái băng trung, Thốn TRẦM đờm kết ở hung,
Quan TRẦM khí đoản tề đông hư hàn.
Xích mạch TRẦM tiện nan hung bế,
Đùi và lưng trọng trệ không thư.
Thốn bộ mạch HOÃN từ từ,
Đầu gây nhức cứng, thận tà đương xông.
Quan mạch HOÃN phúc trung khi kết
Không xuống lên duới liệt trên cường
Xích mà HOÃN kém phần dương,
Đêm nằm thấy quỉ, mơ màng đồi khi.
Thốn mạch SẮC, tâm suy thoát huyết,
SẮC ở quan háo tuyệt Can kinh, Xích SẮC con trai bại tinh,
Con gái bại huyết khó thành bào thai.
Hoặc có thai con rồi có bịnh, Hoặc giá đồng dưới rốn sủi vang.
Thốn TRÌ tâm bị hàn thương, Quan TRÌ phúc thống hàn đường trung-tiêu.
Xích mạch TRÌ cước yêu trầm trọng.
Thổ khắc thủy trầm động lý hàn.
Thốn PHỤC khí tích trung tiêu(15)
Tả quan trường-tịch mắt liền hôn mê.
Xích PHỤC thì trúng hằn tiết tả,
Ăn không tiêu tọa ngọa bất ninh.
Thốn NHU chân lạnh đã đành, Cũng là tâm phế hai kinh hư nhiều
Tả Quan NHU bởi điều chi nhĩ ? Tận tinh thần, bại khí hư can.
Xích NHU là bịnh ố hàn
Âm dương sắp thoát bảo toàn để chi?
Thốn mạch NHƯỢC dương suy âm kiệt,
Quan NHƯỢC là khí huyết đều suy.
Xích NHƯỢC hình thể tân ly, Âm dương khí tuyệt phu bì toan
đông.
10.- CỬU ĐẠO THUỘC BỊNH
Mạch TRƯỜNG ấy khắp mình nóng sốt,
Âm tà nhiều độc kết Can Tâm. Tam tiêu nhiệt khí thâm trầm, Biến thành đàm nhiệt ngồi nằm
không yên,
Vậy chỉ nên từ từ phát hãn. Mạch ĐOẢN là Âm loạn Dương trung,
Tam tiêu khí tắc không thông. Đồ ăn không hóa bên trong không hòa.
Thuốc nên gia thông trường lợi tiện,
Kẻo hại tỳ bịnh biến hư hàn. Mạch HƯ dẫu thấy tam-quan, Chính ra bịnh tại tâm can thụ tà.
Hay khinh trợn, những là hoảng hốt,
Tạng phủ hư, lãnh kết, nhiệt sinh,
Thuốc dùng phải bổ tiêu kinh, Âm dương thuận tình, hỏa sẽ quy nguyên,
Mạch SÚC hiện ở bên quan tả,
Dật thốn tiền thủy hỏa tương thừa.
Thủy đầy tắc huyết có dư,
Biến thành ban chẩn bình từ tam tiêu.
Thoái lên yêu chứng này khó trị (16).
KẾT mạch là Tỳ-Vị bị thương, Đòi cơn đau ở đại-trường,
Tam tiêu vị hỏa liệu đường khai thông.
ĐỢI mạch chủ hình dung luy sấu,
Nguyên khí suy khai khau như hô,
Can mộc tán, thận thủy khô, Hân hân hồn phách bịnh từ long
đong.
LAO mạch là hung trung khí súc,
Tà thủy nhiều thận thúc lên tâm,
Hỏa kia không chịu thủy xâm, Đùng đùng chống lại phế kim thụ tà,
Rồi hung ức sinh ra cấp suyễn, Đốt xương đau, mạch biến nhiều bề.
Mạch ĐỘNG hiện bệnh thì khó trị,
Sán băng cùng huyết lỵ thương hàn.
Mạch TẾ nọ đông-thiên chẳng ngại,
Về các mùa mới phải toan lo, Xương đau, tủy lạnh, tinh khô, Héo vàng lông tóc tiêu khô hình hài.
Mach SÁT thì phát cuồng đại nhiệt,
Phủ tạng cùng XÚC KẾT dương tà,
Hỏa nồng tâm những xót xa, Kìa như mạch ĐỢI thực là chẳng sai.
CÁCH mạch thời hư hàn quái chứng,
Nam tiết tinh,Nữ dựng bất thành.
Ấy là mạch bịnh phân minh,
Nhận xem cho biết tử sinh dường nào?
11.- ĐỢI MẠCH
Năm chục động bắt đầu một nghỉ,
Mạch người thường như thế là mừng.
Gần năm mươi mạch đã dừng,
Cũng là Xác mạch chưa từng hề chi. (17)
Bốn mốt động là nguy một tạng,
Trong bốn năm tính mạng còn chi.
Ba mốt động, hai tạng suy,
Hẹn ba năm nữa là kỳ lên tiên.
Hai mốt động hai niên là hạn,
Mười lăm lần thì đoán một niên.
Ấy là ĐỢI mạch đã truyền,
Khi xem mạch bịnh thì chuyên kể ngày.
Hai lần động nghỉ ngay một bận,
Ba bốn ngày số tận không sai.
Ba lần động một lần thôi,
Sáu bảy ngày nữa là đời hư không,
Bốn lần động, hẹn trong tám bữa,
Những chứng này ai chữa cho lành.
Xem các bịnh đoán tử sinh,
Động rồi lại nghỉ lấy hình mà suy.
"Mạch ĐỢI là tạng đã vong,
Dẫu cho Thương Biển khôn hòng cứu cho".
12.-THỜI MẠCH
Mạch bốn mùa năm hành tương khắc,
Ngày can chi tính được rành rành.
Mùa xuân, Thu mạch hiện hình,
Nhớ ngày Thân, Dậu, Tân Canh cho tường,
Mùa Hè sang thấy Đông mạch lại,
Tính trong ngày Tý Hợi Quý Nhâm.
Mùa Thu mạch Hạ chớ lầm, Bính Đình Tị Ngọ dễ cầm cho yên.
Tiết Đông-thiên, mạch theo tứ quý,
Nhớ Sửu Mùi Mậu Kỷ Tuất Thân
Tứ quý mà thấy mạch Xuân, Gặp ngày Giáp Ất Mão Dần còn
chi.
Đó bốn thì, năm hành tương khắc,
Lại suy kém hư thực cho cùng. Mùa Xuân mà thấy mạch Đông, Là hư phải bổ mới xong đấy mà.
Thấy mạch Hạ ấy là mạch thực, Phải tả đi thì chắc không lo.
Tứ quý gặp Hạ Đông Thu
Cứ theo phép trước, sai thù chút
nao ?
13. TẠP CHỨNG MẠCH
Mạch tạp chứng cũng suy cho hết,
Kiêng hay nên phải biết kiết hung.
Thương-hàn nên Đợi và Hồng, Nếu mà Trầm, Tế chớ hòng chữa chi.
Trúng phong-mạch Phù, Trì không ngại,
Cấp thực mà Sát-Đợi là nguy. Ha-lợi nên Tiểu và Vy,
Phù Hồng nào có hay gì mà mong.
Hoắc-loạn chỉ Hầu, Hồng nên trị,
Mà Trì Vi thiểu-khí sao nên,
Tâm thống Trầm, Tế là yên,
Nếu mà Hầu Đợi Trường Huyền là nguy.
Thổ, nục huyết, bịnh về Tâm Phế,
Kiêng Đợi, Phù ; Trầm, Tế là nên.
Nói mê nói sảng liền liền,
Kiêng bề Trầm, Tế; nên miền Thực Lao,
Bịnh tiêu-khát nên điều Sát Đợi, Thấy Tế Hư thì phải đề phòng. Nhâm-thần nên Đợi và Hồng,
Tế Trầm là bịnh thai trong bất hòa.
Khái thấu mà Hồng, Nhu là tốt, Phục, Trầm là khí huyết đã suy. Phúc trướng mạch Đợi lo chi, Nếu mà Vi, Tiểu là tỳ đã hư. Bịnh phù thủng từ từ thượng khí,
Nên Hoạt, Phù mà kị Tế Vi.
Thổ tả : Trầm Tế hề chi,
Nếu mà Sát, Tật thì nguy khó hòng.
Bệnh đầu đông. Họat, Phù nên trị,
Đoản Sắc là mạch kỵ bệnh này,
Kim sang Vi, Tế là hay,
Đợi, Sát, tật cấp, là ngày hết mong .
Trúng-ác mà phúc trung đầy trướng.
Yêu Khẩn, Tế ; không chuộng Đợi Hồng.
Trung-độc Vi, Tế phải phòng, Hễ mà Sát, Đợi thì không sợ gì ?
Chứng đàm suyễn nên ghê mạch Sát,
Thấy mạch Phù vững chắc không lo.
Hạ-huyết Thực, Đợi có đâu,
Nếu mà Trầm Nhược dể hầu bỏ du
Bệnh thủy-khí nên Phù và Đợi, Thấy Tế, Vi đáng ngại ngùng thay.
Nội-thương Huyền, Khẩn là hay, Nếu mà Nhược, Tiểu càng ngày
càng suy.
Bệnh phát-nhiệt kiêng Vi và Tiểu,
Nhiệt thuộc dương, không thích êm đềm.
Đờm tiệt mạch Đoi nên hiềm, Phúc trung có tích Nhược,Trầm là nguy.
Nơi hung cách phải khi trệ khí, Kiêng Nhược, Nhu mà thích Khẩn, Phù.
Phong Tê nên mạch Hư, Nhu. Nếu mà Khẩn, Cấp ấy thù oan gia,
Thận chẳng hòa sinh ra bỉ mãn, Kiêng Sát, Trầm, nên Hỏa và Phù.
Khái nghịch Huyền, Cấp thì thua,
Ví bằng Phù, Hưởn còn lo lắng gì.
Bệnh đai-hạ thì Trầm và Hoạt, Nếu Phù, Hư khó bịt cho yên.
Bỉ mãn mạch Hoạt là nên,
Nếu mà mạch Sát biết liền nội hư.
Bịnh phát nhiệt vẩn vơ nói sảng,
Nên Đợi, Phù, kiêng thấy Tế, Vi. Thổ-huyết nục-huyết hai bề,
Chỉ kiêng Phù, Đợi ; sợ chi Tế,Trầm.
Chứng đau mắt Thống tâm phiền-khát,
Nên Sác, Thực mà ghét Phù, Vi. Mắt nhắm chẳng thấy chi chi, Mạch nên Phù, Đoản mà ghê Cấp,Cường.
Bệnh đại-trường thường thường tiết tả,
Hoạt, Khẩn, Đợi, Thực, quả bất
Nghi.
Chỉ nên những mạch Tế Vi, Thuốc thời cần phải bổ tỳ chí công.
Thóa, thổ huyết, phải trông cho kỷ,
Có tơ hồng Phế bị nhiệt thương. Nhổ ra tiên huyết phải tường, Can kinh có tổn, mạch thường Hậu Vi.
Bịnh thóa -huyết ngại chi Trầm. Nhược,
E Thực, Lao, Đợi, Sát mà thôi. Đàn bà khi mới đẻ rồi,
Nên bên Tiểu, Thực ; kiêng loài
Phù, Hư.
Nên và kỵ mạch nhue thế thế, Bịnh và người lại kể ra sao.
Hai đường đều có khác nhau, Phải xem cho kỷ ngỏ hầu khỏi sai,
Bịnh nội-thương có người dễ chữa,
Mạch bịnh-nhân tráo trở không thường.
Ruột phiền mình nóng như rang,
Mạch mà Tế, Tiểu thuốc thang khó lòng.
Chứng thấp nọ chân không thấy hãn,
Dẫu thần y cũng chẳng làm chi, Hình khô mà sốt ly bì,
Mạch thời Cấp, Sát còn chi mà
hòng.
Ấy là nói trong vòng tử mạch, Ngoại hình xem biện bạch cho
tường.
Những người diện sắc không quang,
Mặt phù đầu nhức, mát thường tối tâm.
Hãn chảy ra lại thêm thân nhiệt, Mặt phù, da như thiết như yên. Thẳng dương hai mắt trông lên, Sờ giường, lần áo, chẳng yên lúc
nào.
Thận-nang thọt, lưỡi thu ngắn lại,
Người hôn mê, ỉa đái không hay.
Sắc bên tai mắt đen đầy (18) Lần lần vào mũi chạy ngay xuống mồm.
Thở phập phòng hình như miệng cá,
Hơi thì hôi chẳng khá đến gần. Tóc ngay như thể cán cân;
Bấy nhiêu hình chứng mười phần hung nguy.
Chứng sản-hậu lại suy hung kiết,
Xích diện mà thanh thiệt mẩu sinh,
Diện thanh, thiệt xích, tử vinh (19)
Lưỡng thanh, thần, khẩu, ắt đành cả hai.
[(1) Mạch phù thuộc về phủ, khi xem mạch, sẽ ấn ngón tay mình vào nơi bì phu người bệnh để nghe mạch của tấu phủ. (2) Ấn ngón tay không nhẹ không nặng để nghe mạch của Vỵ khí (3) Ấn nặng ngón tay để nghe mạch của năm tạng (4), (5), (6).-Quan Ngay Xương cao.
Ông Thầy dùng ngón tay giữa tìm chỗ xương cao ở cả tay người bịnh hể tay phải của thầy thì xem tay trái của người bệnh, bắt đó kéo lên trên để dò bộ Quan, rồi mới đạt ngón tay trỏ ở ngoài đó là bộ Thốn, ngón danh ở trong là bộ Xích.(7) Mạch mao hơi phù mà đoản rít khó, chính mạch mùa thu là mạch sắc
(8) Mạch thạch, là mạch trầm ấn nặng tay mới thấy.
(9) Mạch trường chạy dài suốt ba bộ hình như cây sào.
(10) Mạch đoản ngắn ngủi, trong một ngón tay mà chạy không suốt.
11.12.13. SÚC.KẾT.ĐẠI ba mạch nhảy đều có ngừng, nhưng SÚC nhảy hơi mau rồi ngừng,ngừng rồi nhảy lại,
KẾT nhảy hơi chậm cũng ngừng, ngừng rồi nhảy lại" Còn mạch ĐẠI nhảy vài ba lần động lại nghỉ một lần mà không lại nửa.
(14) Mạch Huyền chủ về chứng bị gió độc phạm vào làm đau các đốt xương.
(15)khí tích ở trên ngực
(16)Phát ban nếu ở chân tay lên lưng bụng thì không chữa được.
(17)cho là Xác mạch có bệnh nhưng chưa nguy.
(18) Sắc da chỗ mang tai đến mắt thấy đen là nguy.
(19) Mặt xanh lưỡi đỏ con sống; trái lại thì mẹ sống con chết.]
Làm thuốc không biết mạch. cũng như đi đêm không có đèn Cổ nhân đã nói như vậy.
Nhưng, xem mạch là việc rất khó mà nhớ phương pháp xem mạch lại càng khó hơn nữa.
Bởi vậy các nhà danh y nước ta ngày xưa cũng đã diễn ý mạch kinh thành ca quốc-âm, đó là những cách làm cho việc khó hóa ra việc dễ vậy.
Xét trong bài ca dạy xem mạch này lời văn trôi chảy lại rất đúng với nghĩa sách mạch, nhất là để học cho thuộc lòng, nên tôi sao lục nguyên- văn ra đây để tiện quý bạn tham khảo và nếu có chỗ nào sót vui lòng hiệu chỉnh đề cùng dụng cho đoàn hậu tấn hảo học.
LỜI MỞ ĐẦU
Thung dung ngẫm nghĩ y-thư,
Linh-đơn thần dược dựng từ vua Nông.
Giúp muôn bịnh, nếm cùng trăm cỏ,
Đem dân lên cõi Thọ nền Xuân.
Mạch xem đề phép hậu nhân,
Phù, Trầm, Trì, Sác, thốn phân rõ ràng.
Hoặc ngoại-cảm nội-thương phải biết.
Dù thực hư khí huyết cho tường,
Liệu mà cao, tán, hoàn, thang,
Một pho bản-thảo để gương muôn đời,
Thầy Thúc-Hòa là người Đông-Tấn,
Nghề Hiên-Kỳ chín chắn, tinh tường.
Soạn ra mạch-quyết, tiên phương,
Như giòng nước chảy,như tràng áo xông.
Vâng Tiên-triết, mở lòng hậu học
Lời Quốc âm ôn đọc cho hay.
Mạch xem từ thuở sáng ngày,
Âm kia chưa động,Dương này chưa tan.
Lòng còn không chưa hề ẩm thực,
Khí huyết đương đúng mực hòa- bình.
Khoan thai ngồi phải ngay mình,
Nhận xem mạch ý cho rành chớ sai.
Hoặc có lúc gặp người bịnh gấp,
Liệu xem qua lọ trấp lệ thường.
Trai thì bên tả là Dương,
Gái thì bên hữu phải tường là Âm
1.-THẤT CHẨN
Phép có bảy chớ lầm thất chẩn,
Xem mạch thì cẩn thận cho hay.
Một là yên tĩnh lòng này,
Giữ gìn khí tức chớ sai tơ hào.
Hai là chớ tưởng điều lo nghĩ,
Bỏ việc ngoài thì ý mới tinh.
Ba là yên định hơi mình,
Một hô một hấp quân bình mới hay.
Bốn là nhẹ ngón tay dò xét,
Mạch Phủ nầy cho biết là phù (1).
Thứ năm sẽ ấn mà dò.
Nhớ rằng Vỵ khí qui hồ thích
trung (2).
Sáu ấn nặng ở trong cốt tiết,
Mạch tạng nầy cho biết là trầm (3).
Bảy xem trì sác chớ lầm,
Một hơi mấy Chí suy tầm thực, hư.
2.-CỬU HẬU
Bẩy phép đó gọi rằng thất chẩn,
Cửu hậu này nên nhận bản tiêu.
Tay tuy tả hữu hai chiều,
Mạch: Quan, Xích, Thốn cũng đều có ba,
Quan ở trong, ấy là định-chuẩn,
Ngang xương cao cùng tận sau bàn.
Xem thì cứ đấy làm Quan, (4)
Trong ngoài Xích (5) Thốn (6) nhớ đàn mà suy.
Quan trở ra đó thì Thốn mạch,
Quan trở vào là Xích chẳng sai.
Hai bên ba bộ cả hai,
Phủ nào tạng ấy theo loài một cung.
Bên tay trái Thốn cùng Quan Xích,
Thốn bộ : Tâm mạch với Tiểu Trường.
Quan bộ : Can Đởm rõ ràng,
Xích bộ:là thận-Bàng quang một dòng.
Bên tay phải, Thốn cùng Quan Xích,
Thốn bộ : thì Phế với Đại-trường.
Quan bộ : Tỳ Vị rỏ ràng,
Xích bộ: Mệnh hỏa với đường Tam Tiêu,
Cả ba bộ đều theo chủng loại,
Trong có ba ngoài lại có ba.
Nhân trong Cửu hậu suy ra,
Ba ba tính lại chẳng là chín chăng?
3.-TAM HẬU
Phù trung trầm ấy ra ba hậu,
Theo Thốn, Quan, Xích, khẩu mà
lường.
Tả thốn nhẹ xét tiểu-trường, Trung là Vỵ-khí nặng đường Tâm- kinh.
Tả Quan bộ nhẹ dành đởm-khí,
Trung Vy-khí nặng chỉ can-phường.
Tả Xích, nhẹ xét Bàng-quang,
Trung xem Vỵ-khí nặng đường thận kinh.
Tay hửu cũng phân minh tách bạch,
Hửu thốn nhẹ xem mạch Đại-trường.
Trung là Vị khí phải tường,
Nặng thì mạch phế, phép càng mầu thay.
Hữu quan nhẹ mạch này Vỵ phủ,
Trung Vỵ khí nặng đó Tỳ kinh.
Hữu Xích nhẹ Tam tiêu kinh,
Trung xem Vỵ khí nặng rành Mệnh môn.
Phải xét kỹ mấy con tạng phủ,
Nhận các kinh cho tỏ kinh nào ?
Đoạn rồi tóm hết trước sau,
Nghiệm điều hư thực suy câu dữ lành.
Trước coi hình, sau xem tiếng nói,
Lại hỏi xem bệnh phải khi nào ?
Bấy lâu uống những thuốc nao ?
Cùng suy với mạch nghiệm vào một hai.
Người cao đầy khi coi thừa ngón,
Kẻ nhỏ lùn thu gọn ngón tay.
Âm Dương bộ phận sao đây ?
Xích kia âm đó thốn này là dương.
Trai mạch thuận thốn cường xích nhược
Gái trái đi mới được bình yên
Trai thì tả mạnh là nên
Gái thì hữu mạnh cũng bên mạch thường
Trai mạch gái là dương khí yếu Gái mạch trai âm thiếu mà ra Mạch bình theo đó suy qua Nếu mà trái khóe ấy là ốm đau Đoán mạch phải xét theo từng bộ
Khí huyết cùng tạng phủ làm sao ?
Thốn bộ thị ở thượng tiêu
Từ đầu đến ngực bịnh đều phần trên
Quan : trung tiêu cùng miền Hung ức.
Xích : lưng đùi với chỗ Hạ tiêu Ba bộ bịnh ở bộ nào ?
Thuộc phủ thuộc tạng bản tiêu cho tường
Năm tạng, thương tạng nào bịnh ấy
Sáu phủ kia cũng vậy khác chi ? Tâm, can, phế, thận và Tỳ
Đó là năm tạng tên ghi rõ ràng Đại Tiểu trường cùng là Đởm Vị Từ bàng quang cho chí tam tiêu
Cái tên sáu phủ đã nêu
Tạng là bản, phủ là tiêu đó mà Một tức là một 《hô》một 《 hấp》
Mạch bốn lần răm rắp chẳng sai
Hoặc thêm năm chí một hơi Cùng là bình mạch trong người không sao
Phù, trung, trầm, bộ nào cũng thế
Có Vỵ khí là mạch có thần
Nếu mà trì sác bất quân
Ấn tay không lực không thần là nguy
Mùa Xuân thì mạch Huyền là phải
Hạ mạch Hồng, thu tới mạch mao(1)
Mùa đông mạch thạch (2) càng yên
Bốn mùa bình mạch ấy đều khoan an
4.- THẤT BIỂU
Mạch thất biểu lại bàn cho trải PHÙ : như tay đã phải giọc hành
HẬU : trung không, lưỡng biên đình
HOẠT: luôn ba bộ như hình hột
châu
THỰC : trường đều khinh phù có lực
HUYỀN : kỉnh trực vững thẳng giây cung
KHẨN : găng như thể bện thừng
HỒNG : thì chẳng đợi ấn hằng có dư
5. BÁT LÝ
Bảy mạch xưa ấy là thất biểu Bát lý này lại bảo cho tường TRẦM : như buông nhẹ tận xương
Vi thời nhữ thể tạo vương khác gì ?
HOẢN giống trì lại qua thảnh thót
SẮC kết như giao gọt tinh tre Trầm mà tam chí là TRÌ
PHỤC thời thiết cốt li ti khó tìm
NHU thời mềm chẳng ưa ấn nặng
NHƯỢC xem ra lai vãng dường không
6.– CỬU ĐẠO
Thuộc âm bát lý đã xong
Lại xem cửu đạo cho cùng mới nên
TRƯỜNG nhược can (3) chạy liền ba vị
ĐOẢN bản chỉ bất cập bị lai (4) Mạch HƯ tuy có lốn giài
Phù trầm vô lực cả hai lạ gì ? SÚC (5) mạch thì ở nơi thốn khẩu
Súc chẳng khoan dễ giấu được ai ?
KẾT (6) thì chợt khứ chợt lai
Như trì như hoãn tụ rồi lại tan Động hựu chỉ bất hoàn là ĐỢI (7) LAO tựa trầm khi lại khi không
Lần lần lại ẩn vào trong
Nhỏ mà không lực có không bất thường
ĐỘNG thời dường mơn mơn đá động
Chẳng lại đi chỉ đóng một nơi TẾ thời nho nhỏ chẳng sai Mãnh manh vô lực kém loài mạch Vy
7. XÚC-CÁCH-ĐẠI
Mạch trước kia ấy là cửu đạo Còn ba mạch lại bảo cho tường XÚC thời thuộc biểu thuần dương
Một tức sáu chí rõ ràng chẳng sai
CÁCH mạch thời trọng khinh đều thực
Nằng nặng dường ấn mặt trống rung
ĐỢI kia cũng giống mạch Hồng Nhẹ thời chằng lớn, nặng không tựa Trầm
Phải dụng tâm cho tường mạch tính. Khi xem thì đính chính mới hay
Ấy là mọi mạch đã bày
Còn xem thuộc bình sau này cho thông.
8.- THẤT BIỂU THUỘC BỊNH
Thốn mạch PHÙ trên đầu gió thoảng,
Quan mạch PHÙ: phúc trướng Vị không,
Xích PHÙ thời Phế thụ phong, Đại trường khô sáp khó thông phong tà.
Thốn HẬU là hung trung tích huyết,
Quan HẬU thì trệ kết trường Ung,
Xích HẬU di nịch huyết nung,
Thận kinh hư bại không thông tiểu-trường.
Thốn bộ HOẠT là thường thổ nghịch,
Quan HOẠT thời Vị tích hư hàn, Uống ăn coi bộ gian nan,
Xích mà mạch HOẠT tê hàn như
băng.
Dương-hỏa hưng thì Âm-thủy kiệt,
Nước uống nhiều không biết chán chê.
Thốn THỰC là hung trung phiền nhiệt,
Quan THỰC thì đau nhức trung- tiêu,
Xích THỰC nhiệt truyền lưu tiểu- phúc,
Bụng dưới đau từng lúc lại đầy, Tiểu tiện bí sáp ghê thay.
Ấy là thực-nhiệt tích đầy hạ-tiêu,
HUYỀN mạch chủ phong lao thống tiết, (14)
HUYỀN ở Can là nhiệt sanh phong,
Thốn HUYỀN cấp thống chủ hung,
HỮU quan thấy nó vị trung khách hàn.
Xích bộ HUYỀN đan-điền đình thủy,
Bởi Vị hư khôn chế thận-kinh. Thốn KHẨN đầu thống đành rành
Quan KHẨN thiết thống lưu đình hung trung.
Xích KHẨN chủ nhiểu đông tề-hạ,
Nhiệt kết hung thốn bộ thấy HỒNG.
Quan HỒNG phiên vị ẩu không, Xích HỒNG tiện sáp cước đông vô thì.
9, BÁT LÝ THUỘC BỊNH
Thốn Vi khí bốc lên thành bĩ, Quan Vi là uất khí kết tâm,
Xích Vi chủ bịnh về âm,
Thận hàn thủy động thân ngâm bất thường,
Âm thịnh nhiều thì dương suy bại,
Nam di tinh, Nữ đái băng trung, Thốn TRẦM đờm kết ở hung,
Quan TRẦM khí đoản tề đông hư hàn.
Xích mạch TRẦM tiện nan hung bế,
Đùi và lưng trọng trệ không thư.
Thốn bộ mạch HOÃN từ từ,
Đầu gây nhức cứng, thận tà đương xông.
Quan mạch HOÃN phúc trung khi kết
Không xuống lên duới liệt trên cường
Xích mà HOÃN kém phần dương,
Đêm nằm thấy quỉ, mơ màng đồi khi.
Thốn mạch SẮC, tâm suy thoát huyết,
SẮC ở quan háo tuyệt Can kinh, Xích SẮC con trai bại tinh,
Con gái bại huyết khó thành bào thai.
Hoặc có thai con rồi có bịnh, Hoặc giá đồng dưới rốn sủi vang.
Thốn TRÌ tâm bị hàn thương, Quan TRÌ phúc thống hàn đường trung-tiêu.
Xích mạch TRÌ cước yêu trầm trọng.
Thổ khắc thủy trầm động lý hàn.
Thốn PHỤC khí tích trung tiêu(15)
Tả quan trường-tịch mắt liền hôn mê.
Xích PHỤC thì trúng hằn tiết tả,
Ăn không tiêu tọa ngọa bất ninh.
Thốn NHU chân lạnh đã đành, Cũng là tâm phế hai kinh hư nhiều
Tả Quan NHU bởi điều chi nhĩ ? Tận tinh thần, bại khí hư can.
Xích NHU là bịnh ố hàn
Âm dương sắp thoát bảo toàn để chi?
Thốn mạch NHƯỢC dương suy âm kiệt,
Quan NHƯỢC là khí huyết đều suy.
Xích NHƯỢC hình thể tân ly, Âm dương khí tuyệt phu bì toan
đông.
10.- CỬU ĐẠO THUỘC BỊNH
Mạch TRƯỜNG ấy khắp mình nóng sốt,
Âm tà nhiều độc kết Can Tâm. Tam tiêu nhiệt khí thâm trầm, Biến thành đàm nhiệt ngồi nằm
không yên,
Vậy chỉ nên từ từ phát hãn. Mạch ĐOẢN là Âm loạn Dương trung,
Tam tiêu khí tắc không thông. Đồ ăn không hóa bên trong không hòa.
Thuốc nên gia thông trường lợi tiện,
Kẻo hại tỳ bịnh biến hư hàn. Mạch HƯ dẫu thấy tam-quan, Chính ra bịnh tại tâm can thụ tà.
Hay khinh trợn, những là hoảng hốt,
Tạng phủ hư, lãnh kết, nhiệt sinh,
Thuốc dùng phải bổ tiêu kinh, Âm dương thuận tình, hỏa sẽ quy nguyên,
Mạch SÚC hiện ở bên quan tả,
Dật thốn tiền thủy hỏa tương thừa.
Thủy đầy tắc huyết có dư,
Biến thành ban chẩn bình từ tam tiêu.
Thoái lên yêu chứng này khó trị (16).
KẾT mạch là Tỳ-Vị bị thương, Đòi cơn đau ở đại-trường,
Tam tiêu vị hỏa liệu đường khai thông.
ĐỢI mạch chủ hình dung luy sấu,
Nguyên khí suy khai khau như hô,
Can mộc tán, thận thủy khô, Hân hân hồn phách bịnh từ long
đong.
LAO mạch là hung trung khí súc,
Tà thủy nhiều thận thúc lên tâm,
Hỏa kia không chịu thủy xâm, Đùng đùng chống lại phế kim thụ tà,
Rồi hung ức sinh ra cấp suyễn, Đốt xương đau, mạch biến nhiều bề.
Mạch ĐỘNG hiện bệnh thì khó trị,
Sán băng cùng huyết lỵ thương hàn.
Mạch TẾ nọ đông-thiên chẳng ngại,
Về các mùa mới phải toan lo, Xương đau, tủy lạnh, tinh khô, Héo vàng lông tóc tiêu khô hình hài.
Mach SÁT thì phát cuồng đại nhiệt,
Phủ tạng cùng XÚC KẾT dương tà,
Hỏa nồng tâm những xót xa, Kìa như mạch ĐỢI thực là chẳng sai.
CÁCH mạch thời hư hàn quái chứng,
Nam tiết tinh,Nữ dựng bất thành.
Ấy là mạch bịnh phân minh,
Nhận xem cho biết tử sinh dường nào?
11.- ĐỢI MẠCH
Năm chục động bắt đầu một nghỉ,
Mạch người thường như thế là mừng.
Gần năm mươi mạch đã dừng,
Cũng là Xác mạch chưa từng hề chi. (17)
Bốn mốt động là nguy một tạng,
Trong bốn năm tính mạng còn chi.
Ba mốt động, hai tạng suy,
Hẹn ba năm nữa là kỳ lên tiên.
Hai mốt động hai niên là hạn,
Mười lăm lần thì đoán một niên.
Ấy là ĐỢI mạch đã truyền,
Khi xem mạch bịnh thì chuyên kể ngày.
Hai lần động nghỉ ngay một bận,
Ba bốn ngày số tận không sai.
Ba lần động một lần thôi,
Sáu bảy ngày nữa là đời hư không,
Bốn lần động, hẹn trong tám bữa,
Những chứng này ai chữa cho lành.
Xem các bịnh đoán tử sinh,
Động rồi lại nghỉ lấy hình mà suy.
"Mạch ĐỢI là tạng đã vong,
Dẫu cho Thương Biển khôn hòng cứu cho".
12.-THỜI MẠCH
Mạch bốn mùa năm hành tương khắc,
Ngày can chi tính được rành rành.
Mùa xuân, Thu mạch hiện hình,
Nhớ ngày Thân, Dậu, Tân Canh cho tường,
Mùa Hè sang thấy Đông mạch lại,
Tính trong ngày Tý Hợi Quý Nhâm.
Mùa Thu mạch Hạ chớ lầm, Bính Đình Tị Ngọ dễ cầm cho yên.
Tiết Đông-thiên, mạch theo tứ quý,
Nhớ Sửu Mùi Mậu Kỷ Tuất Thân
Tứ quý mà thấy mạch Xuân, Gặp ngày Giáp Ất Mão Dần còn
chi.
Đó bốn thì, năm hành tương khắc,
Lại suy kém hư thực cho cùng. Mùa Xuân mà thấy mạch Đông, Là hư phải bổ mới xong đấy mà.
Thấy mạch Hạ ấy là mạch thực, Phải tả đi thì chắc không lo.
Tứ quý gặp Hạ Đông Thu
Cứ theo phép trước, sai thù chút
nao ?
13. TẠP CHỨNG MẠCH
Mạch tạp chứng cũng suy cho hết,
Kiêng hay nên phải biết kiết hung.
Thương-hàn nên Đợi và Hồng, Nếu mà Trầm, Tế chớ hòng chữa chi.
Trúng phong-mạch Phù, Trì không ngại,
Cấp thực mà Sát-Đợi là nguy. Ha-lợi nên Tiểu và Vy,
Phù Hồng nào có hay gì mà mong.
Hoắc-loạn chỉ Hầu, Hồng nên trị,
Mà Trì Vi thiểu-khí sao nên,
Tâm thống Trầm, Tế là yên,
Nếu mà Hầu Đợi Trường Huyền là nguy.
Thổ, nục huyết, bịnh về Tâm Phế,
Kiêng Đợi, Phù ; Trầm, Tế là nên.
Nói mê nói sảng liền liền,
Kiêng bề Trầm, Tế; nên miền Thực Lao,
Bịnh tiêu-khát nên điều Sát Đợi, Thấy Tế Hư thì phải đề phòng. Nhâm-thần nên Đợi và Hồng,
Tế Trầm là bịnh thai trong bất hòa.
Khái thấu mà Hồng, Nhu là tốt, Phục, Trầm là khí huyết đã suy. Phúc trướng mạch Đợi lo chi, Nếu mà Vi, Tiểu là tỳ đã hư. Bịnh phù thủng từ từ thượng khí,
Nên Hoạt, Phù mà kị Tế Vi.
Thổ tả : Trầm Tế hề chi,
Nếu mà Sát, Tật thì nguy khó hòng.
Bệnh đầu đông. Họat, Phù nên trị,
Đoản Sắc là mạch kỵ bệnh này,
Kim sang Vi, Tế là hay,
Đợi, Sát, tật cấp, là ngày hết mong .
Trúng-ác mà phúc trung đầy trướng.
Yêu Khẩn, Tế ; không chuộng Đợi Hồng.
Trung-độc Vi, Tế phải phòng, Hễ mà Sát, Đợi thì không sợ gì ?
Chứng đàm suyễn nên ghê mạch Sát,
Thấy mạch Phù vững chắc không lo.
Hạ-huyết Thực, Đợi có đâu,
Nếu mà Trầm Nhược dể hầu bỏ du
Bệnh thủy-khí nên Phù và Đợi, Thấy Tế, Vi đáng ngại ngùng thay.
Nội-thương Huyền, Khẩn là hay, Nếu mà Nhược, Tiểu càng ngày
càng suy.
Bệnh phát-nhiệt kiêng Vi và Tiểu,
Nhiệt thuộc dương, không thích êm đềm.
Đờm tiệt mạch Đoi nên hiềm, Phúc trung có tích Nhược,Trầm là nguy.
Nơi hung cách phải khi trệ khí, Kiêng Nhược, Nhu mà thích Khẩn, Phù.
Phong Tê nên mạch Hư, Nhu. Nếu mà Khẩn, Cấp ấy thù oan gia,
Thận chẳng hòa sinh ra bỉ mãn, Kiêng Sát, Trầm, nên Hỏa và Phù.
Khái nghịch Huyền, Cấp thì thua,
Ví bằng Phù, Hưởn còn lo lắng gì.
Bệnh đai-hạ thì Trầm và Hoạt, Nếu Phù, Hư khó bịt cho yên.
Bỉ mãn mạch Hoạt là nên,
Nếu mà mạch Sát biết liền nội hư.
Bịnh phát nhiệt vẩn vơ nói sảng,
Nên Đợi, Phù, kiêng thấy Tế, Vi. Thổ-huyết nục-huyết hai bề,
Chỉ kiêng Phù, Đợi ; sợ chi Tế,Trầm.
Chứng đau mắt Thống tâm phiền-khát,
Nên Sác, Thực mà ghét Phù, Vi. Mắt nhắm chẳng thấy chi chi, Mạch nên Phù, Đoản mà ghê Cấp,Cường.
Bệnh đại-trường thường thường tiết tả,
Hoạt, Khẩn, Đợi, Thực, quả bất
Nghi.
Chỉ nên những mạch Tế Vi, Thuốc thời cần phải bổ tỳ chí công.
Thóa, thổ huyết, phải trông cho kỷ,
Có tơ hồng Phế bị nhiệt thương. Nhổ ra tiên huyết phải tường, Can kinh có tổn, mạch thường Hậu Vi.
Bịnh thóa -huyết ngại chi Trầm. Nhược,
E Thực, Lao, Đợi, Sát mà thôi. Đàn bà khi mới đẻ rồi,
Nên bên Tiểu, Thực ; kiêng loài
Phù, Hư.
Nên và kỵ mạch nhue thế thế, Bịnh và người lại kể ra sao.
Hai đường đều có khác nhau, Phải xem cho kỷ ngỏ hầu khỏi sai,
Bịnh nội-thương có người dễ chữa,
Mạch bịnh-nhân tráo trở không thường.
Ruột phiền mình nóng như rang,
Mạch mà Tế, Tiểu thuốc thang khó lòng.
Chứng thấp nọ chân không thấy hãn,
Dẫu thần y cũng chẳng làm chi, Hình khô mà sốt ly bì,
Mạch thời Cấp, Sát còn chi mà
hòng.
Ấy là nói trong vòng tử mạch, Ngoại hình xem biện bạch cho
tường.
Những người diện sắc không quang,
Mặt phù đầu nhức, mát thường tối tâm.
Hãn chảy ra lại thêm thân nhiệt, Mặt phù, da như thiết như yên. Thẳng dương hai mắt trông lên, Sờ giường, lần áo, chẳng yên lúc
nào.
Thận-nang thọt, lưỡi thu ngắn lại,
Người hôn mê, ỉa đái không hay.
Sắc bên tai mắt đen đầy (18) Lần lần vào mũi chạy ngay xuống mồm.
Thở phập phòng hình như miệng cá,
Hơi thì hôi chẳng khá đến gần. Tóc ngay như thể cán cân;
Bấy nhiêu hình chứng mười phần hung nguy.
Chứng sản-hậu lại suy hung kiết,
Xích diện mà thanh thiệt mẩu sinh,
Diện thanh, thiệt xích, tử vinh (19)
Lưỡng thanh, thần, khẩu, ắt đành cả hai.
[(1) Mạch phù thuộc về phủ, khi xem mạch, sẽ ấn ngón tay mình vào nơi bì phu người bệnh để nghe mạch của tấu phủ. (2) Ấn ngón tay không nhẹ không nặng để nghe mạch của Vỵ khí (3) Ấn nặng ngón tay để nghe mạch của năm tạng (4), (5), (6).-Quan Ngay Xương cao.
Ông Thầy dùng ngón tay giữa tìm chỗ xương cao ở cả tay người bịnh hể tay phải của thầy thì xem tay trái của người bệnh, bắt đó kéo lên trên để dò bộ Quan, rồi mới đạt ngón tay trỏ ở ngoài đó là bộ Thốn, ngón danh ở trong là bộ Xích.(7) Mạch mao hơi phù mà đoản rít khó, chính mạch mùa thu là mạch sắc
(8) Mạch thạch, là mạch trầm ấn nặng tay mới thấy.
(9) Mạch trường chạy dài suốt ba bộ hình như cây sào.
(10) Mạch đoản ngắn ngủi, trong một ngón tay mà chạy không suốt.
11.12.13. SÚC.KẾT.ĐẠI ba mạch nhảy đều có ngừng, nhưng SÚC nhảy hơi mau rồi ngừng,ngừng rồi nhảy lại,
KẾT nhảy hơi chậm cũng ngừng, ngừng rồi nhảy lại" Còn mạch ĐẠI nhảy vài ba lần động lại nghỉ một lần mà không lại nửa.
(14) Mạch Huyền chủ về chứng bị gió độc phạm vào làm đau các đốt xương.
(15)khí tích ở trên ngực
(16)Phát ban nếu ở chân tay lên lưng bụng thì không chữa được.
(17)cho là Xác mạch có bệnh nhưng chưa nguy.
(18) Sắc da chỗ mang tai đến mắt thấy đen là nguy.
(19) Mặt xanh lưỡi đỏ con sống; trái lại thì mẹ sống con chết.]
Các bài viết khác
- NHỮNG CHỨNG BỆNH CỦA TRẺ EM (phần cuối) (26.02.2025)
- NHỮNG CHỨNG BỆNH CỦA TRẺ EM (p5) (25.02.2025)
- NHỮNG CHỨNG BỆNH CỦA TRẺ EM (p4) (24.02.2025)
- NHỮNG CHỨNG BỆNH CỦA TRẺ EM (p3) (22.02.2025)
- NHỮNG CHỨNG BỆNH CỦA TRẺ EM (p2) (21.02.2025)
- NHỮNG CHỨNG BỆNH CỦA TRẺ EM (20.02.2025)
- NHỮNG CHỨNG BỆNH RIÊNG CỦA PHỤ NỮ (phần cuối) (19.02.2025)
- NHỮNG CHỨNG BỆNH RIÊNG CỦA PHỤ NỮ (p5) (18.02.2025)
- NHỮNG CHỨNG BỆNH RIÊNG CỦA PHỤ NỮ (p4) (17.02.2025)
- NHỮNG CHỨNG BỆNH RIÊNG CỦA PHỤ NỮ (p3) (15.02.2025)