BẢO SẢN CA

28-08-2024

 

 

BẢO SẢN CA

                                  I

Đàn bà trong lúc có thai,

Một niềm gìn giữ chớ phai tấm lòng.

Đạo thường nữ Đức, nữ Dung,

Nữ Công, nữ Hạnh thời lòng chớ quên.

Tai nghe đọc sách thánh hiền,

Chớ nghe hí-hước hoặc bên dâm-tà.

Đoan-trang kiều-diễm nết-na,

Dù trai dù gái sinh ra khác thường.

                                   II

Ăn uống lại bảo cho tường,

Thịt gà, đồ nếp, rượu, tương chớ dùng. (1)

Trâu bò cho đến thịt muông,

Tỏi, Gừng, Cua, Ếch cũng đừng ăn chi.

Hoài thai sinh nở đến kỳ,

Việc trong gia-thất làm thì cho nhanh.

Ăn rồi, ngồi rỗi thì kiêng,

Theo lời dạy bảo cho tường sau đây :

"Đạt sinh" đã có bài này,

Thai tám, chín tháng uống rày vài thang:

Truật, Sâm, Quy, Thược, Trần, Cam,

Phúc-bì, Tô-Cánh gia thêm mà dùng,

Hạ, Cầm Xuân lại gia Khung. (2)

Sa-nhân, Chỉ sác, điều cùng cũng nên.

                               III

Lâm bồn coi hướng nào yên,

Tý, Ngọ, Mão, Dậu (3), Khôn (4) miền chính châu.

Bình thời Tỵ, Hợi, Dần, Thân (5)

 

Còn Tây-bắc hướng, thập phân yên-toàn.

Sửu, Mùi, Thìn, Tuất chớ quên (6).

Đông-nam tốn hướng chớ phiền: sợ lo.

                             IV

Lại còn bài thuốc bảo cho,

Phải tìm ngành lá Tử tô đề phòng.

Chậm sinh thời nấu mà dùng,

Lửa hơ tê phúc với cùng sản-môn (7)

Thôi thôi yên phúc đau rồn (8)

Phút liền sinh sản mẹ con phương tuyền.

Xuyên khung cân lấy ngũ tiền (5 ₫ c)

Xuyên quy nhất lượng, ngũ tiền Trạch-lan.

Thủy tiên giảm bán sẽ toan (9)

Gia thêm đồng tiện uống làm một khi.

Gia vị sinh hóa Quế-chi,

Khung, Quy, Khương, thảo với thì Đào nhân,

Hồng-hoa, Nhục-quế ba phân.

Bội dùng Ngưu tất một phần cũng nên,

Uống rồi, giường cứ bước lên,

Nằm thời nằm ngửa,chớ nghiêng bên mình.

                                   V

Nhi-chẩm đông-thông (10) chớ kinh,

Sơn tra 1 lạng sắc thành rót ra.

Bạch-đường một lạng điều hòa,

Với cùng đồng tiện thêm ra một phần.

Chẳng những tiêu ứ sinh tân,

Kiện tỳ tiêu thực mười phần tiêu nhao.

Hoặc khi giảo thống tâm bào, (11)

Hôn mê chẳng tỉnh, bài nào cho hay:

Dùng bài Thất tiếu tán này,

 

Bồ-hoàng phân số cũng tày Linh-chi.

Tửu tiên cho gấp (12) một khi,

Uống vào thoắt đã khác chi trận cười.

                             VI

Tàng bào(13) phép ấy chẳng chơi,

Tìm nơi sinh khí cử nơi mà tàng.

Tháng Giêng thời ở Tý phương,

Tháng Hai phương Sửu cứ phương lần cùng.

Kiêng phương Tam sát, Nguyệt không,

Cùng phương Thái-tuế thời lòng chớ quên.

Muốn cho con trẻ được yên,

Chớ quen thói tục chôn bên cửa buồng

                              VII

Hoặc người nết gái luông tuồng,

Chẳng hay kiêng cữ ghen tuông sinh trì.(14)

Có bài Phật Thủ Đương Quy,

Chớ nghe thầy nói những thì thôi sinh,

Độc sâm sắc uống cũng linh,

Hoặc cùng Phật thủ dễ sinh thực là (15)

Nhân sinh ví cũng như hoạ,

Đủ ngày thời nở nọ là thôi sinh.

Xem thường mạch thấy ly kinh,

Thủy tương (16) đã phá ắt sinh tức thì.

Ví dầu thế, hoặc thiểu trì (17)

Bài Hắc-thần-tán vậy thì cũng nên :

Dấm thanh đồng tiền hòa liền,

Thạch-xương, Bạch-chỉ, cũng nghiền hỏa đi.

 

Ba đồng chia uống ba khi,

Bài này ắt hẳn sinh thì đã hay.

Uống bài Sinh hóa thang này:

Ngoài gia Ngưu-tất cũng tày Hồng-hoa.

Ba phân Nhục-quế chờ già,

Tức thì khí hóa thực là hiệu thay.

Dù ai chậm đẻ vài ngày,

Bổ-trung ích-khi xưa nay đã truyền.

Ngoài gia Ngưu-Tất cũng nên,

Thăng trung, hữu giáng phép liền thông linh.

Bào càn (18) hoặc phải trì sinh,

Gia bài Bát-vị ích-tinh chớ chày.

Nhân sâm sung phục càng hay,

Xuyên-Khung tán huyết lúc nay chớ dùng.

Hoặc thời lại uống bổ trung,

Khí năng sinh huyết, lạ lùng không sai.

                      VIII

Hoặc người giao-cốt bất-khai,

Thôi sinh đệ nhất một bài kể ra:

Phải dùng tóc rối đàn bà,

Rửa đi cho sạch bằng là quả cau.

Hỏa thiêu tồn tính (19) hồi lâu,

Với cùng Qui-bản, trích hầu tế nghiên,

Khung, Quy các dụng ngũ tiền.

Tiên thang (20) tống hạ phép tiên lạ lùng.

Uống thời chắc mửa chẳng không,

Mửa thời sinh dễ, thần thông phép lành.

Nhược bằng chửa mửa, chửa sinh,

Uống thêm lần nữa, an ninh vuông tròn.

 

                            IX

Bào-y phải hạ mới yên,

Ví dù chẳng hạ, bí truyền phương ni:

Trạch-lan sắc với Khung, Quy.

Rượu ngon, đồng tiện cùng thì hòa nhau.

Quì-tử tán mạt điều vào,

Uống thời kiến hiệu lẽ nào không xong.

Hoặc người lãnh-nhược, tử cung,

Vậy nên ứ huyết ở trong thai bào.

Can-khương sao hắc gia vào,

Uống vào công hiệu thuốc nào còn gia.

Hoặc người khứ huyết quá đa,

Bào-y can-sáp thì ta phải lường :

Kíp vò nắm lá Vong-vang,

Lóng đi cho sạch, sẵn sàng hẳn hoi,

Để dùng nước ấy mà bôi,

Bốn bề sản hộ sẽ bôi dần dần.

Rồi bảo mấy người thân nhân,

Hai tay sốc nách dân-dần nhắc lên.

Bào-y lúc ấy xuống liền,

Ấy là phép thuật tương-truyền xưa nay.

                                 X

Hoặc người gặp lúc chẳng may,

Phúc trung thai tử (21) khốn thay bội phần.

Hoắc hương bình-vị, Thảo, Trần,

Phác-tiêu nghiền nhỏ bội phần ra sau.

Lửa đun sắc nấu hồi lâu,

Uống thời kiến-hiệu thuốc đâu ví tày.

Ngán thay thế tục xưa nay,

Đẻ thường dùng lửa đêm ngày sưởi da.

 

Mồ hôi dầm-dột chảy ra,

Cho nên khí-nhược bệnh đà gian nan.

Cứ suy lẽ phải mà bàn,

Hễ ngày viêm nhiệt, lửa than chớ dùng.

Những khi gặp tiết lạnh-lùng,

Mới nên than lửa đề phòng huyết ngưng.

                              XI

Hoặc người đầu nhức bâng khuâng,

Ấy là huyết vựng bảo cùng cho hay:

Dấm thanh một bát cho đầy,

Một viên sắt nguội bằng tày quả cau.

Lửa nung cho đỏ ngầu-ngầu,

Bỏ vào bát dấm để hầu hấp-hơi.

Sơn-khô (22) tán nhỏ một nơi,

Bỏ vào bát Dấm để rồi mà xông,

Hoặc người càn-khái ho không.(23)

Phấn đằng (24) bỏ mắt với cùng bỏ da.

Dao tre chẻ bốn chẻ ba,

Mật, nước (25) điều hòa sao tẩm vàng đen.

Nước hòa đồng-tiện (26) sắc liền,

Ắt là hiệu nghiệm nhãn tiền chẳng sai,

                                XII

Hoặc là cổ sản hạt-mai (27)

Bã chè là hiệu xin ai phải tường.

Tứ thất bài ấy chớ thường,

 Phác, Trần, Tô, Cánh cũng bằng Phục linh,

Dầu ai giận dữ mà sinh,

Uống liền vài tễ yên ninh tức thì.

Toan tương (28) kiếm lấy một khi,

Vò ra với muối ngậm thì cũng hay.

 

Không thì lấy Độc-lực này.

Vò ra mà ngậm, ắt thời cũng thôi.

Tới khi ứ huyếi tiêu rồi.

Người hư nên dụng lấy bài bổ hư.

Truật, Sâm một đồng chớ dư,

Khung, Qui, Trần-quất kiêm chư Hoàng-kỳ.

Đều cũng năm phân làm kỳ,

Ba phân Trích-thảo cùng thì Ổi-khương.

Nóng quá gia hắc Can-khương,

Nóng vừa Bạch-phục phép thường bảo cho.

Sơ sinh đã thấy chứng hư.

Cũng dùng bài ấy giảm gia đáng tình.

Chớ nề phép cũ rành rành,

Quen làm trục ứ ắt đành gian nguy.

                             XIV

Sản-hậu âm huyết thiên khuy,

Âm hư phát nhiệt mạch thì Phù không.

Mặt đỏ miệng ráo mắt hồng,

Uống bài bổ huyết hiệu cùng thần tiên.

Hoặc người khí huyết hư hèn,

Biến sinh các chứng, Tố-nguyên đi tày.

Thục-địa dùng lấy làm thày,

Mạch môn tam bạch dùng rầy đừng sai.

Tục, Đỗ, Ngưu-tất đã hay,

Lại thêm Khương-thán dẫn rầy Đăng Liên. (29)

Bụng đau Ích mẫu gia liền,

Người mà hư nhược quyết liền xung Sâm.

                                XV

Hoặc người đau bụng ngâm-ngâm,

 

Đầy tức chẳng nằm lại có tiếng ho.

Phải dùng bài cổ Sâm - Tô,

Nhân sâm, Tô-mộc hiệu thu tức thì.

Nhược bằng chẳng có bệnh gì,

Khí huyết hư thiểu Quế, Kỳ Tứ-quân.

Kíp cùng Tứ- vật bình phân,

Thập-toàn đại bổ nhắc cân mà dùng.

                               XVI

Hãn sậu (30) hoặc bị trúng phong,

Nằm ngay cứng thẳng nên dùng Kinh-qui.

Nhược bằng chẳng bớt chút chi,

Khu phong dưỡng huyết dùng thì lại hơn.

Thục địa dùng lấy vi quân,

Khung Qui vi thần dẫn dụng Hắc-Khương.

Lại thêm Tùng tiết (sao rượu), Bạch cương,

Trọng, Tất, Tục-đoạn với phường Nhẫn đông. 

Dùng Quế chớ dùng Thiên hùng,

Bài này ai cũng thường dùng đã quen.

                            XVII

Nhũ ung vì bởi giận hờn,

Can-Kinh huyết thịnh phép bèn bảo cho.

Thanh-bì cũng phải Sài hồ,

Thược, Qui, Thảo-tiết, với Bồ công anh,

Nhẫn đông với nắm đậu xanh,

Sắc rồi chế rượu uống lành thời thôi.

Ngoài tra lấy lá quít hôi,

Quế cùng Đại-toán (31) đâm nhồi như cao

Giạt ra thành miếng gián vào,

Chưa thành nùng ấy thoắt tiêu lạ dường.

 

Hoặc là lấy gỗ De-hương,

Rồi mài với thuốc phất thường đôi khi.

Ráo thời lại phất tức thì,

Tự nhiên thũng xứ tiêu đi lạ lùng.

Nhược bằng nó đã có nùng.

Phá ra chóng ráo cao dùng sinh cơ.

Hàn the (32) tìm lấy một khi,

Lựa toàn những là sao thì cho đen.

Uất kim (33) sao cháy cùng nghiền,

Dầu và bạch mật(34) đều bèn thích trung(35)

Cách thủy mà nấu cho đông.

Phết vào giấy trắng để dùng mà niêm (36)

Uống trong khí huyết tương kiêm :

Qui-tỳ bài ấy phải tìm lạng phân.

 Sinh-kỳ một lạng xứng cân,

Đương-qui cũng phải nửa phần Trích-cam.

Phòng-phong năm đồng cũng nên,

Sáu đồng Ích mẫu ba tiền Quất thanh (37)

Chia làm bốn chén để dành,

Gia Khương sắc uống ắt rành sinh cơ.

                             XVIII

Hoặc người hoảng hốt dại ngơ,

La quàng nói quấy, chớ ngờ rằng ma.

Tâm bào (38) ứ huyết sinh ra,

Năm đồng Đậu-kỹ sao hòa cho thơm,

Dùng sống một cái Trư-tâm.(39)

Chế rượu với nước nấu hầm mà ăn.

Ăn rồi lại uống dần đần,

Ví bằng lại thấy mười phần chưa yên.

 

Cứ như bài trước uống liền,

Uống vào ắt sánh thuốc tiên cũng tầy.

Sản hậu bất ngữ (40) lạ thay,

Cũng dùng thuốc trước bài này chớ quên.

                                   XIX

Có người chính khí vốn hèn,(41)

Hoặc nhầm trục ứ, huyết dầm lâm ly.(42)

Gia giảm Ích khí (43) cấp thì,

Sâm, Kỳ, Qui, Truật dụng thì vi quân.

Xuyên-Khung, xích thược vi thần,

Thăng-ma sao mật bội phần cho già,

A-giao, Ngãi-điệp lại gia,

Can-khương sao hắc điều hòa bằng nhau.

Đảo lưu thủy tiễn (44) mới mầu,

Sa-mạo (45) thời đốt nghiền hầu đều gia.

Lấy cỏ lông-lợn vò ra,

Chế vào nước thuốc điều hòa uống đi.

Uống vào đau bụng một khi,

Ấy là kiến hiệu tức thì khỏi ngay.

Hạ huyết bất chỉ thuở này,

Ấy là hư thận dùng rầy Cử-nguyên. (46)

Ngoài gia sao hắc Càn-khương,

Sa-mạo đốt nghiền cùng Tam-thất-căn.(47)

Hà diệp (48) một là bội phân,

Gia vào hòa sắc mười phần thuyên yên.

Hoặc người khối thống miên miên,(49)

Vì chứng ứ huyết mạch bèn lao kiên (50)

Sơn-khô đốt cháy hòa viên,

Dấm-thanh Đồng-tiện hòa liền uống đi.

                           XX

 

Hoặc người hư thống đòi khi,

Đau mà hí án (51) ắt thì thuộc hư.

Càn khương một lạng chớ dư,

Khung, Qui, phân nửa cũng thì tửu sao. (52)

Ba đồng Sinh-thược gia vào.

Giấm thanh đồng tiện hòa vào mới hay.

Phù thũng mấy chứng kể bày.

Có người thũng cả ngập đầy dưới trên.

Đôi hồi khúc khoác ho hen,

Tiểu tiện xích sáp thực hèn toan tân (53)

Đại hồi, Diêm-tiêu bình phân,

Cùng điều nửa lạng hai phần Ô-long (54)

Nghiền ra điều mới hỗn đồng,

Nước lạnh ba bát cho xong tra vào.

Sắc lên mấy độ hỏa bào,

Uống khi một chén thũng tiêu dần dần

Muối cùng đồ mặn chớ cần,(55)

Cua cùng đường mật để ăn làm thường.

                                XXI

Hoặc người khí thũng cho tường,

Hoặc thũng trên mặt hoặc đường tứ chi.

Tiếng ho khúc khoác đôi khi,

Nhân sâm, Bạch truật dụng thì vi quân

Trần-bì Bạch-phục vi thần,

Bội dùng Ý dĩ hai phần cũng nên.

Lại thêm La-bặc sao nghiền.

Thủy phân khí kiện (56) bí truyền cho hay.

Có người sản hộ (57) thũng này.

Tiểu tiện bế sáp xuốt ngày kêu ca.

Bởi chứng thấp thủy vi tà,

 

Thuốc dùng Thục địa cùng là Truật, Sâm.

Ý-dĩ với Bạch-phục-linh,

Sa-tiền, Sơn-dược trọng khinh phải lường.

Ba phân Nhục-quế rõ ràng,

Tên bài Thông-thủy tỏ tường hiệu sao!

                               XXII

Có người thủy nhập tâm bào.

Ách nghịch bất chỉ thuốc nào là hay.

Đều dùng Chỉ nghịch thang này.

Nhân sâm Nhị truật (58) đều tày ba phân.

Một đồng Ý-dĩ, Phục thần.

Hai phân Trần-quất (59) ba phân Ngô-thù.

Một phân Bán hạ cũng vừa.

Một đồng Thiết-thục (60) bảo cho tỏ tường.

Sắc rồi mài lộn Đinh-hương.

Nước mưa sắc uống hiệu càng linh thông.

Có người thủy khí nghịch xung,

Tác huyền (61) bất chỉ hầu cùng gian nguy.

Tá thời Ninh khí bổ tỳ,

Quân thì Bạch truật thần thì Mạch Sâm

Thiểu gia Tô-tử sao dầm.

Với cùng La-bặc vài đồng cũng nên.

Hoặc người khúc khoác ho hen.

Hung phúc trướng mãn thực bèn chứng âm (62)

Vậy nên suyễn xúc khó nằm,

Mạch thời thượng thực hạ hư rõ bày.

"Tuyền chân nhất khí" cũng hay.

Hoặc khứ Sâm, Truật gia rầy Đăng tâm.

 

Hoặc là gia bội Huyền-sâm.

Hoặc gia khương-thán chước châm mà dùng.

Đầu quay con mạch độc hồng,

Hoặc là trầm sắc ta dùng "Trinh-nguyên" !

Thục-địa hai lạng cũng nên.

Đương qui giảm bán Chích Cam hai tiền.

                        HẾT BẢO SẢN CA

PHỤ CHÚ:

1) Sách thuốc khi xưa chép lại bảo tương cũng kiêng, nhưng nếu tương làn bằng gạo tẻ thì có thể ăn được.

2) Mùa hạ thì gia thêm Hoàng Cầm, mùa Xuân thì gia thêm Xuyên Khung.

3) Ngày Tý, ngày Ngọ, ngày Mão, ngày Dậu

4) Hướng Tây-nam

5) Ngày Tý, ngày Hợi, ngày Dần, ngày Thân,

6) Ngày Sửu, ngày Mùi, ngày Thìn, ngày Tuất.

(7) TÊ, PHÚC là bụng và rốn, SẢN MÔN là cửa mình.

(8) Yêu phúc là lưng và bụng.

(9) Cho nước vào đun cạn 1 nửa mới lấy dùng.

(10) Lúc đau giở dạ đẻ.

(11) Đau thích lên tâm bào lạc.

(12) Hai phần rượu một phần nước.

(13) Chôn rau, (Thói tục cũ thì chôn rau ở ngay của buồng), nhưng bây giờ thì đừng theo, nên tìm chỗ vượng khí mà chôn.

 

(14) Chậm đẻ

(15) Bài Phật thủ sung sâm.

(16)Nước vỡ ồi-ối.

(17) Chậm sinh

(18)Trong bào ở đường sinh bị khô.

(19)Đốt ra than lấy dùng.

(20)- Sắc uống.

(21)thai chết trong bụng

(22)Giây sơn đay bọc ở những bát hoặc thùng dầu sơn để khô.

(23)ho khan không có đờm

(24)cây chìa vôi

(25)mật với nước hòa lẫn nhau mà tẩm

(26)nước với đồng tiện hòa lẫn làm nước sắc với phấn đằng

(27) Trong cổ như có hạt gì vướng, khạc ra chẳng được, nuốt không vào gọi là sản Bã chè.

(28)Cây chua me đất.

(29) Liên tâm và Liên nhục

(30)ra mồ hôi nhiều

(31) Đại toán là củ tỏi.

(32) Cây vỏ ốc.

 (33) Uất kim: củ nghệ.

(34) Bạch mật: mật ong.

(35) Thích trung: dùng vừa vừa.

(36) Niêm: gián vào.

(37) Quất thanh: thanh bì tẩm giấm sao cho đen.

(38) Tâm bào : Tâm bào lạc.

 

(39) Trư tâm: tim lợn. Đậu kỷ xào tán cho vào tim lợn đổ nước với rượu vào mà hầm (40) bất ngữ: không nói được.

 (41) Hèn: hư tổn.

(42): huyết ra đầm đìa.

(43) bài bổ trung ích khí

(44) nghĩa là lấy nước giọt gianh mà sắc thuốc.

 (45) Sa-mạo : Mũ đen đội đầu.

(46) Cử nguyên : bài Cử-nguyên: Sâm, kỳ, truật, thảo, Thăng-ma.

 (47) Củ Tam thất.

 (48) Lá sen

 (49) miên-miên đau bụng ngăm ngăm cả ngày

(50) ao-Kiên: Mạch kiên lao.

 (51) hí án: thích bóp.

(52) tẩm rượu sao.

 (53) ăn vị chua cay,

 (54) Ô long vĩ: lá mồng hóng

(55) kiêng ăn muối và các đồ mặn.

(56) tiêu thủy và mạnh chân khí.

(57) Cửa mình.

(58) Bạch truật và Thương truật

 (59) Trần bì.

(60) Sắt rèn.

(61) Chóng mặt quay lộn.

(62)Âm hư

back-to-top.png