THẬP NHỊ KINH BỊNH TRỊ

18-09-2022

THẬP NHỊ KINH BỊNH TRỊ
Dựa song nhơn thuở thừa nhàn,      Xem trong sách vở luận bàn y-gia.
Âm-dương huyết-khí điều hòa,       
Tạng - phủ hư thiệt ấy là bổn nguyên.
Tâm-Can-Tỳ-Phế ngủ - hành, 
Thận phần thứ nhất số sanh trên đầu.
Thuộc về tả - xích phải âu, 
Bàng-quang phủ ở tóm thâu trong ngoài.
Thủy thời sanh mộc thứ hai,
Tả quan Can bộ ai ai cũng tường. 
Mộc thời sanh hỏa nam phương, 
Tả thốn Tâm bộ, Tiểu trường vậy vay.
Hửu-xích tướng hỏa bằng nay, Mạng-môn cũng đó kiêm bày sách nêu.
Biểu lý đã tỏ mọi đều, 
Hỏa sanh Tỳ-Thổ ở triều hữu quan,
Thổ thời sanh Kim tây phương, Hữu thốn Phế bộ Đại-trường tương liên.
Thái - dương kinh túc bàng quang, 
Nhược bằng kinh thủ đà sang Tiểu-trường.
Dương - minh thủ là Đại trường, 
Còn như kinh túc tỏ tường Vị trung.
Thiếu - dương kinh túc thủ tùng, Tam tiêu phủ Đởm thân cùng anh em.
Tam dương thủ túc đã xem, Tam âm thủ túc khá tầm định phân.
Tạng Tỳ kinh túc thái âm, 
Thủ là kinh Phế đã cầm xét suy. 
Kinh thủ thiếu âm liên chi, 
Tâm kinh chánh ngọ định thời chẳng sai.
Kinh túc thiếu dương ai ai, 
Đó là kinh Thận luận bày mới
ngoan. 
Quyết-âm kinh túc tạng can, 
Thủ là bào - lạc thâm tàng sáu kinh,
Thủ túc biểu lý phân minh, 
Âm dương cho hãn kinh tình mười hai.
Kim thời khắc mộc chẳng sai,
Thủy thời khắc hỏa chẳng nài thị phi.
Ngủ hành cho biết mà suy, 
Mộc thời khắc thổ định thời cho hay.
Hỏa lại khắc kim bằng nay, 
Tạng phủ sanh khắc cho hay kẻo lầm. 
Can thời thuộc mộc tương lâm,
Tâm thời thuộc hỏa phế tầm thuộc kim. 
Tỳ gia cho biết mà tầm, Thổ
về tứ quí ở miền trung ương,
              ☆☆☆☆☆
Có chứng tam âm tam dương, Dương thời tại biểu ngỏ tường giải cơ.
Thái dương chứng ấy chớ ngờ, Nhức đầu mình nóng khảd trừ cho mau.
Làm thang Ma-hoàng rất mầu, Uống vào một chén nằm thời ngủ an.
Dương - minh chứng ấy khá toan, 
Mũi sò mắt nhức đêm ngày kêu vang.
Sài cát giải cơ mới ngoan, 
Uống rồi thời đặng thân an thái hòa.
Thiếu dương miệng đắng khó a, Xóc hông tại điếc biến ra nhiều bề. 
Làm thang Song-giải sách đề, 
Uống rồi đôi nước bình huề như xưa.
Bốn mùa tà chánh tương thừa, Xung hòa Khương hượt khử trừ hữu công.
Xuân hạ rồi lại thu đông,
Cũng làm thang ấy thông dùng hôm mai. 
Theo trời tháng giêng tháng
hai, 
Đôi nơi dương-khí ai ai cũng
đồng.
Hương tô thang ấy hữu công.
Chẳng nên quá bạn mà không
chuẩn thằng. 
Tháng ba dương - khí thường thăng, 
Chứng hư chứng thiệt phải
dùng Sâm-Tô. 
Chứng làm ngoại cảm nóng ho, Thăng dương độc khí nhiễm vô yết hầu.
Hoặc hiệp Tứ-vật làm đầu, 
Âm dương thăng giáng phải hầu
bộ tâm. 
Tháng tư hỏa thạnh nhiệt thâm, Bịnh da biền-huyết nóng hầm lưỡi khô.
Cấp làm Thập -vị hương nhu, Hoặc đầu thanh thử Sâm-Tô giải hòa.
Tháng năm ngoài ruộng tiêu sa, Nhiệt khí thương thử vào nhà chẳng sai.
Bịnh nhơn cảm thử thường hoài. 
Đầu thang Thanh thử trị ai cũng lành.
Tháng sáu thấp nhiệt đinh ninh,
Bịnh phát suyễn khái lặng thinh đau mình.
Cát-cặn hiệp với Tứ - linh,
Chớ thấy thấp nhiệt mà khinh
chẳng dè.
Án mạch âm dương căn đề 
Gia giảm điều trị thánh đề tể thang.
Tháng bảy trời trổ tiết sang, Mùa thu hàn thấp bốn phương chẳng hòa.
Hoặc phát thấp lạnh vậy mà, Hoặc sanh khái thấu cũng là thấp lương.
Đầu thang phát tán cho tường, Cùng là Chánh - khí thoát - hương mới mầu.
Tháng tám tháng chín chánh thu, 
Thương- phong khái - thấu bịnh âu chẳng vừa.
Trước đầu Sâm tô cũng ưa, 
Sau làm Bô-Phế sách xưa thiệt tài.
Tháng mười, mười một, mười hai, 
Âm khí tìm phục chẳng sai đâu là.
Mùa đông tiết thạnh hàn tà, Thâp-thần thang dụng thiệt là cổ-phương.
Lại rằng tạp bịnh chẳng thường, Bỉ đầu Thừa-khí, ho, phường Sâm-Tô.
Hoặc người ế khí nghịch xo,
Phân-tâm khi-ẩm cấp cho thời lành. 
Bịnh nào hầu bế thất thinh, Đàm da khuyết lãnh âm - kinh
trúng hàn.
Hồi-dương cứu cấp đặng an, Liền đầu Ngũ tích vẹn toàn trước sau.
Lại chứng phong sang ốm đau, Nhi-biền bế kiết diện đầu sanh sang.
Mặt đỏ mình nóng chẳng an, 
Thiệt của tiêu khát nhiều đường chẳng xong.
Hoặc là ẩn chẩn phế phong 
Hoặc sanh trĩ-lậu thâm trong can-trường.
Các chứng thiệt nhiệt tỏ tường, Phòng-phong thông thánh cổ phương rất mầu.
Lại chứng trúng phong khổ
âu. 
Tả nạn hữu-hoán cũng hầu sáu kinh. 
Tay chơn khó cất khỏi mình,
Miệng thời cấm khẩu thiệt hình
khó thay.
Sáu kinh ứng hiện tỏ bày, 
Quả trong huyết - mạch phong bày dưỡng vinh, 
Cương - trấp trúc lịch trừ kinh, 
Uống vào nửa khắc bịnh lành như không.
Trúng phong kinh lạc thông đồng, 
Miệng mắt méo vạy lưng cong khó nằm.
Mới làm Song - giải cho nhằm, 
Liền đầu Phuc-chánh bịnh thâm thượng trì.
Lâu dùng Bát-vị khỏi ngay.
Ô dước thuận-khí chứng chi cũng lành. 
Bốn mùa mạo khái đàm tanh,
Nhức đầu mũi nghẹt năng mình
khó thay. 
Các loài sang độc đều hay, Thời hành chân đậu chứng bày đa-đoan.
Nhơn-sâm bại độc tán thang. 
Trước cho đủ vị lại sang Kinh Phòng 
Hoặc làm Bá - giải tiên - phong, Thập - toàn đại bộ mặc lòng liệu toan.
Bốn mùa luận đã rõ ràng, 
Lại bịnh tráng - nhiệt tàn - hàn đầu đông.
Thiệt nhiệt mạch ấn Phù hồng, Thăng-ma càn các hữu công
trước dùng. 
Trúng - thấp nhiều nẻo khôn cùng. 
Cả mình đau nhức thấp tùng tương xung.
Trừ thấp Khương hượt khá dùng, 
Noi theo cổ - thánh khôn cùng tài cao.
Người nào thận-khí suy hao, 
Dải dầu thấp-địa ra vào chẳng kinh.
Gân co xương nhức liên thinh,
Phong tà nhập - khước cả mình
đau vai. 
Độc - hượt ký-sanh chẳng sai, 
Ta dùng thang ấy ai ai dám bì.
Trong thang phép uống có kỳ, 
Mỗi phen thêm dấm uống thì liền hâm.
Lại chứng đàm - thạnh hỏa xăm, 
Hung trung khí cách khá tầm bổn nguyên.
Hòa vị nhị trần tương liên, 
Thiên - ma chỉ - thiệt nam tinh cương – tàm.
Nhận xem chứng thiệt lão đàm, Cấp gia Hải thạch phải làm Qua lâu.
Nhiệt đàm nhận thiệt nhiệm mầu, 
Cầm, Liên, Tri, Bá làm đầu mới an.
Vị hư tỳ cảm thấp tàng, 
Bội gia nhị Truật trong thang phải dùng.
Thất tình cổ pháp hậu tùng, 
Bổ tỳ bổ thận tương thông đặng lành.
Bổ tỳ Lục quân hữu danh, 
Bổ thận Bát vị địa - hoàng tiếng không.
Người nào hư tổn trong lòng,
Ho hen suyễn-cấp khò khè đàm
diên.
Cùng là háo hẩu chẳng yên, 
Tô-trầm cửu-bửu uống liền rất mau.
Có người hư tổn ốm đau, 
Phát sanh ngược tật dau-dàu ít ăn.
Thanh tỳ lại gia Cát - căn, 
Uống vào tiêu giảm, bịnh lần giảm thuyên.
Lại chứng hạ lợi liên miên, 
Vị quan cố chỉ bảo-toàn rất mau.
Bịnh hư chứng thiệt ốm đau. 
Cắp làm Hóa-trệ liền đầu Hòa - trung.
Tiếp theo Phục-nguơn tương tùng, 
Hư-hàn cửu-lợi khôn cùng tài cao.
Tháng sáu phục thử trong vào, 
Ẩm thực đình tích dễ nào khỏi đâu.
Phúc thống tiết tả thêm sầu, 
Tiểu biển bất lợi thuốc đầu Vị linh.
Nhiều người chẳng biết giữ gìn, 
Ăn đồ sống lạnh mình sanh tật nguyền.
Bụng đau tiết - tả liên-miên, 
Ấy chứng thực tích chẳng hiền chi đâu.
Hương sa vị linh cấp đầu, 
Thang ấy tiêu bổ nhiệm-mầu đinh ninh.
Sơn lam chướng khí tương tranh. 
Thấp xâm hàn - khí chớ khinh đâu là.
Hoặc phát ẩu nghịch xót xa, 
Bất phục thủy -thổ tả mà liên-miên.
Hoắc hương chánh-khí trị thiên, Gia-giảm theo bịnh cho yên đặng lành.
Có bài phụ - nữ thai - sanh, 
Lâm - sản dị - sản đã dành có phương.
Sanh-hóa thang ấy tầm thường, Sơ-sanh sản - hậu thiệt đương thông dùng.
Thai bào tồn-tại phúc trung, Huyết-lãnh khí-bế chẳng thông nhi-biền.
Lâm-sản trở dương không yên, Lục-vị tứ vật uống liền mới ngoan.
Hoặc làm sản nạn chẳng an,
Khẩu trung khí xú miệng toàn luỡi đen.
Trên huyền ẩu thổ không hèn, 
Bụng rờ không máy thai tiền khó thay.
Chứng ấy có trời vậy vay, 
Thầy thời phải hỏi đành tay mụ bà.
Bình-vị thang ấy cấp ra, 
Thủy tửu các bán cũng hòa Phát tiểu.
Hòa rồi sắc cấp liền theo, 
Sôi năm ba dạo, lụa đều lược đi.
Người thai phải uống tức thì, 
Thai hóa ra nước mình thời đặng an.
Thánh xưa sách đề muôn ngàn, Phận hèn đâu dám luận bàn trí cao.
Khuyên cùng hậu-học khá sao, Chép biên cho đủ để trao môn đồ.
Kỳ Hoa Dị Thảo trích(Y-kinh diễn ca).

back-to-top.png